Đơn vị PRU (Province Reconaissant Units đọc tắt là Province Recon Unit hay
Thám Sát Tỉnh) thành lập năm 1966 và chấm dứt vào năm 1972 thời kỳ MACV-SOG
chấm dứt trong chiến tranh Việt Nam, có hơn 4,000 nhân viên PRU họat động
trong chương trình gồm 4 vùng chiến thuật và do CIA tài trợ và trực tiếp
điều hành.
Vùng 1 do Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ
Vùng 2 và vùng 3 do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ
Vùng 4 do Lực Lượng Người Nhái Hoa Kỳ
Sau khi giải tán vào năm 1972 các đơn vị PRU cải tuyễn và sát nhập vào Trinh
Sát của mổi Tiểu Khu và họat động cho đến 30 tháng 4 năm 1975.
While my experience in Tay Ninh does not necessarily represent the
experience of other PRU advisers and their units, I can say confidently that
the Tay Ninh PRU was successful during my tour. From September 1969 to June
1970, the Tay Ninh PRU killed 31 VCI and captured 64–at a cost of only two
PRU members killed and two wounded.
As early as December 1968, it was apparent to
the Tay Ninh PRU that most of the senior VCI cadre had been either killed or
captured in the months after Tet or had been driven into neighboring
Cambodia. As a credible political threat, the VC had ceased to function in
any meaningful way by the time I left Vietnam in June 1970.4
Further proof of the PRU’s effectiveness came in
1975, when the communists finally defeated the South Vietnamese. The NVA
commander occupying Tay Ninh Province would put in a hurried request to
North Vietnam for 200 civilian political cadre. He reported that there were
only six local VC cadre left in the province to manage the province’s
affairs.
The Tay Ninh PRU was successful primarily
because it was a locally recruited outfit whose members had an intimate
knowledge of their province, its people, and the enemy. They also had
discipline, strong leadership, and an intense personal motivation to defeat
the VC. They had an accurate and highly effective intelligence system that
was difficult for the enemy to infiltrate or defeat because it was based on
strong family loyalties and religious and civic affiliations.
The American commanders and advisers came and
went and played important roles. But few served more than a year in any
province. And as much as I (or I think any of my fellow PRU advisers) would
like to find ways to take credit for the success of the PRU, I (and we)
cannot. Long after the Americans left South Vietnam, the Tay Ninh PRU
continued to root out the VCI. The concept may have been an American one,
but the execution and adaptation were entirely Vietnamese.
After the fall of Saigon in April 1975, the
lives of Tay Ninh PRU members changed dramatically for the worse. They were
hunted down and arrested or killed. Many served long terms in reeducation
camps, where they were tortured and made to work under inhumane conditions.
Some escaped the camps and made their way to the United States, where they
were settled by the US government and given jobs.
Most, however, were executed or died in squalid
camps. A few never surrendered and continued to fight the Vietnamese
communists and their southern allies. They organized a “stay behind” unit in
Tay Ninh called the “Yellow Dragons,” and their activities were still
reported on by the communist authorities in the province well into the
1990s.
Bài viết dưới đây của cá nhân chúng tôi dựa vào một ít tài liệu cho các thân
hữu Úc chuyển cho. Chúng tôi tin rằng nó khá chính xác nhưng chắc chắn còn
nhiều thiếu sót. Hơn nữa, trong thời gian phục vụ trong quân đội, chúng tôi
không hề phối hợp với các đơn vị PRU và do đó, xin thứ lỗi nếu có sai sót,
và xin tự nhiên bổ khuyết.
Hai tấm hình chụp các chiến sĩ PRU với một đại uý cố vấn Úc (Xin mở
attachments).
Trong bài này, chúng tôi gửi đến quí vị một bài về những đơn vị hoạt động
rất âm thầm của quân đội chúng ta trước đây. Mãi cho đến nay, rất nhiều
người trong chúng ta chưa biết rõ về những đơn vị này và thậm chí một số
khác còn không biết rằng có sự hiện hữu của họ. Đó là những Đơn Vị Thám Sát
Tỉnh mà tiếng Anh gọi là The Provincial Reconnaissance Units. Khi viết về
những người hùng thầm lặng này, chúng tôi đã phải đắn đo rất nhiều và cuối
cùng quyết định chỉ nêu ra một số sự kiện tổng quát. Chúng tôi đã tìm hiểu
và biết chắc rằng những nhân vật mà chúng tôi nêu danh tánh hay đưa hình ảnh
lên trang mạng này hoặc là đã qua đời hoặc là không còn sinh sống tại Việt
Nam. Bởi vì, mặc dù đã chiếm trọn được miền Nam Việt Nam 37 năm nay, Việt
Cộng chắc chắn sẽ bằng cách này hay cách khác trả thù những người đã góp
phần chính yếu làm tiêu tan hạ tầng cơ sở của chúng khiến chúng khốn đốn một
thời gian dài trước đây.
Từ đầu năm 1967, Việt Nam Cộng Hoà ghi nhận được Việt Cộng hoàn thành các cơ
sở hạ tầng của chúng trong ba quận Hương Thuỷ, Phú Vang và Phú Tứ thuộc Tỉnh
Thừa Thiên. Trong năm đó, quân đội tung ra ba cuộc hành quân nhưng không đem
lại kết quả mong muốn. Trong số thương vong, có Thiếu Tá Peter Badcoe thuộc
Quân Đội Hoàng Gia Úc và ông này sau đó được truy thăng Victoria Cross.
Trong biến cố Tết Mậu Thân 1968, riêng tại Phú Thứ đã có hơn ba ngàn thường
dân bị Việt Cộng tàn sát, trong đó có một số lớn bị chôn sống.
Vào cuối tháng Chín 1968, một cuộc hành quân hỗn hợp qui mô có tên là Phú
Vang 1 được tung ra vào ba quận này. Lực lượng tấn công gồm có Trung Đoàn 54
Bộ Binh Việt Nam, Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Thừa Thiên, Lực Lượng Cảnh Sát Đặc
Biệt, các đơn vị Địa Phương Quân của ba quận và đi theo lực lượng tấn công
này là các cán bộ kiểm tra dân số.
Yểm trợ cho các lực lượng của Việt Nam Cộng Hoà là một lữ đoàn của Sư Đoàn
101 Nhảy Dù Hoa Kỳ và một chi đoàn kỵ binh Hoa Kỳ. Ngoài ra, vì hệ thống
sông ngòi chằng chịt của khu vực hành quân, một Giang Đoàn Xung Kích của
Việt Nam Cộng Hoà ứng chiến để truy kích Việt Cộng trong trường hợp chúng
tẩu thoát bằng đường sông. Ngoài biển, các tiểu đĩnh của Hải Quân Hoa Kỳ
cũng sẵn sàng tác chiến.
Sau 12 ngày hành quân lục soát và tấn công, có 96 tên Việt Cộng bị bắn chết
tại chỗ cùng với 168 tên bị bắt sống (xin xem chú thích 1). Trong số này, có
1 cán bộ chính qui Bắc Việt, 20 tên thuộc chủ lực miền, 54 tên du kích và 93
tên thuộc cơ sở hạ tầng địa phương. Chúng ta tịch thu được 155 vũ khí cá
nhân và 8 vũ khí cộng đồng. Bên bạn, thiệt hại nhỏ đến mức không ngờ: một
chiến sĩ bộ binh Việt Nam Cộng Hoà hy sinh. Có 10 quân nhân Việt Nam Cộng
Hoà và 9 quân nhân Hoa Kỳ bị thương nặng nhẹ. Các cố vấn Hoa Kỳ và Úc, trong
báo cáo của họ, đã hết lời ca ngợi các đơn vị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà và Cảnh Sát Quốc Gia đã rất xuất sắc trong việc hành quân lục soát làng
mạc có Việt Cộng ẩn náu. Tuy nhiên, còn một điều nữa rất đáng ghi nhận là
việc chúng ta tấn công vào đúng nơi và bắt giữ đúng người phần lớn nhờ vào
tin tức tình báo của Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Thừa Thiên. Đây là một thành quả
quá mức mong đợi, nếu chúng ta hiểu được rằng trong một vùng mà Việt Cộng
kiểm soát ban đêm như vậy, ít người dân nào dám cung cấp tin tức cho các lực
lượng của quốc gia vì sợ cộng quân đê hèn trả thù như chúng vẫn thường làm.
Cho đến nay, rất nhiều người trong chúng ta vẫn còn tin rằng Đơn Vị Thám Sát
Tỉnh là một đơn vị của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ, giống như Biệt Kích Mỹ.
Chúng tôi đã tra cứu rất nhiều tài liệu và tham khảo với nhiều cựu sĩ quan
cấp tá của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và các cựu cố vấn Úc tại Việt Nam
trước đây thì thấy rằng sự thật không phải như vậy.
Vào giữa thập niên 1965, lực lượng Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn được thành lập
với mục đích chính là củng cố ảnh hưởng của chính quyền quốc gia đối với dân
chúng tại vùng nông thôn. Sau đó, khi Việt Cộng gia tăng nỗ lực để phát
triển hạ tầng cơ sở của chúng tại các vùng nông thôn thì chúng ta thấy cần
phải có một lực lượng thứ hai hoạt động song song với lực lượng Cán Bộ Xây
Dựng Nông Thôn nhưng thi hành một nhiệm vụ khác hẳn. Đó là tấn công trực
tiếp vào hạ tầng cơ sở Việt Cộng. Dưới sự bảo trợ của CIA, Đơn Vị Thám Sát
Tỉnh (xin xem chú thích 2) (Provincial Reconnaissance Units) được thành lập
vào đầu năm 1966. Tuy được xem là một đơn vị nặng về quân báo nhưng Đơn Vị
Trinh Sát Tỉnh có nhiều nhiệm vụ khác nhau và nhiệm vụ nào cũng rất quan
trọng.
Thứ nhất, đương nhiên là họ có nhiệm vụ thâu thập tin tức tình báo về hạ
tầng cơ sở Việt Cộng, đúng như danh xưng. Thứ hai, họ có nhiệm vụ tung ra
các cuộc hành quân diệt địch. Thứ ba, họ có nhiệm vụ làm giảm đi tiềm năng
của hạ tầng cơ sở Việt Cộng bằng cách thi hành chính sách Chiêu Hồi kêu gọi
cán binh Việt Cộng từ bỏ hàng ngũ để trở về với chính nghĩa quốc gia. Thứ
tư, họ cô lập hoá Việt Cộng bằng cách thực hiện các công tác phản tuyên
truyền để kéo dân trở về với chính phủ.
Về tổ chức, một đơn vị căn bản của họ có 18 người và chia làm ba toán mỗi
toán có sáu người. Trong nhiều trường hợp, có tới tám đơn vị phối hợp với
nhau trong một công tác qui mô với tổng số nhân sự lên đến 146 người. Về mặt
hành chánh quản trị, Đơn Vị Trinh Sát Tỉnh thuộc quyền điều động của Tỉnh
Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng. Tuy nhiên, khi hoạt động, họ được cố vấn và
giám sát của nhân viên CIA. Thông thường thì tại mỗi tỉnh có một nhân viên
CIA đặc trách về lực lượng này.
Về huấn luyện, các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được huấn luyện căn bản tại Vũng
Tàu, giống như các Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn. Trong thời gian tại đây, họ
được huấn luyện về chiến tranh đặc biệt nhiều hơn là chiến thuật như các tân
binh hay khoá sinh của lục quân. Sau khi ra trường, họ còn được huấn luyện
bổ túc tại chỗ để có thể ứng phó với tình hình và địa thế trong phạm vi hoạt
động của họ.
Đến đây, chúng tôi cũng xin nói thêm rằng cùng với việc thành lập Đơn Vị
Thám Sát Tỉnh, một tổ chức khác cũng được khai sinh để hoạt động song song
với họ có một cái tên rất hiền lành là Biệt Chính Nhân Dân. Nhân viên của tổ
chức này gồm có các viên chức chính phủ và họ có ba nhiệm vụ riêng biệt. Thứ
nhất, họ có nhiệm vụ kiểm tra dân số tại các vùng nông thôn. Thứ hai, họ có
nhiệm vụ theo dõi việc bồi thường thiệt hại cho dân chúng do chiến tranh gây
ra. Trong khi thi hành nhiệm vụ này, họ cũng tiếp nhận những khiếu nại của
dân chúng liên quan đến việc bồi thường của chính phủ hoặc việc thanh toán
không sòng phẳng giữa các hợp tác xã nông thôn với nhau. Thứ ba và quan
trọng hơn cả, họ có một nhiệm vụ tối mật là thâu thập bất cứ tin tức nào có
thể đưa đến việc nhận diện bọn Việt Cộng nằm vùng hoặc những kẻ làm tay sai
cho chúng hoặc có cảm tình với chúng. Như vậy, Đơn Vị Thám Sát Tỉnh hoạt
động hữu hiệu cũng một phần nhờ có Biệt Chính Nhân Dân. Ngoài ra, chính hồ
sơ do Biệt Chính Nhân Dân cung cấp về dân số trong làng, mỗi nhà có bao
nhiêu người, bao nhiêu người lớn và trẻ em, bao nhiêu nam và bao nhiêu nữ
cùng với tuổi tác đã giúp cho các lực lượng Đồng Minh được dễ dàng trong các
cuộc hành quân lục soát. Tuy chỉ có nhiệm vụ thu thập tin tức tình báo nhưng
không phải là các cán bộ của Biệt Chính Nhân Dân không biết tác chiến.
Có một lần vào cuối năm 1966, một toán Biệt Chính Nhân Dân của Tỉnh Phước
Tuy được biết tổ ám sát của Việt Cộng sẽ có một phiên họp quan trọng trong
một căn nhà gần chợ Đất Đỏ. Trưởng toán liền đến gặp Đại Uý Jack Leggett là
cố vấn Úc đặc trách về hạ tầng cơ sở Việt Cộng tại Tỉnh Phước Tuy thì chẳng
may ngay đêm hôm sau ông phải đi theo Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Phước Tuy (lúc đó
chưa có bao nhiêu người) trong một cuộc hành quân phục kích rất quan trọng.
Vì vậy nên toán Biệt Chính Nhân Dân phải hành động đơn độc nhưng được Đại Uý
Leggett cung cấp súng ống và lựu đạn đầy đủ.
Tối hôm sau, toán Biệt Chính Nhân Dân dưới sự hướng dẫn của trưởng toán vốn
là một cựu cảnh sát viên, đến bao vây căn nhà. Vì tổ ám sát của Việt Cộng
không biết gì nên chúng bắt đầu phiên họp đúng theo giờ ấn định. Mấy phút
sau, toán Biệt Chính Nhân Dân xiết chặt vòng vây nhưng đúng lúc đó, một toán
viên có lẽ lầm tưởng rằng bọn Việt Cộng trong nhà đã biết được nên vội vàng
tung một trái lựu đạn vào nhà qua cửa sổ. Ngay sau đó, cả toán nổ súng như
mưa trước khi xông vào lục soát. Cả tổ ám sát chỉ còn tên tổ phó sống sót.
Tổ trưởng chính là con trai của bà chủ nhà, chết tại chỗ cùng bà mẹ. Nhưng
bên ta còn tịch thu được rất nhiều tài liệu quan trọng.
Tại Trung Tâm Điều Hợp Hành Quân, tên tổ phó khai rằng theo đúng kế hoạch,
tổ của y ta sẽ cho nổ tung một câu lạc bộ của quân đội Mỹ tại phi trường
Vũng Tàu vào ngày hôm sau. Xem lại tài liệu bắt được tại căn nhà nơi có buổi
họp, các nhân viên điều tra thấy đúng như vậy và ngoài ra, còn có một danh
sách rất đầy đủ các tên đặc công Việt Cộng có mặt tại thị xã Vũng Tàu chờ
lệnh ra tay. Nhưng chúng chưa được lệnh gì thì bên ta ra tay trước.
Căn cứ vào danh sách trong tài liệu tịch thu được, lực lượng Cảnh Sát Đặc
Biệt bất thần hành quân và tóm cổ được sáu mươi tư tên đặc công tại thị xã
Vũng Tàu chỉ trong một buổi tối.
Trở lại với Đơn Vị Thám Sát Tỉnh thì, vì được huấn luyện để hoạt động giữa
lòng đất địch nên họ hoàn thành nhiệm vụ một cách dễ dàng và thoải mái,
giống như một đơn vị đi tuần giữa một vùng thôn quê thanh bình.
Xã Ngãi Giao nằm dọc theo Quốc Lộ 2 trong Tỉnh Phước Tuy được xem là một
vùng theo Việt Cộng. Vì vậy mà các toán thuộc Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Phước Tuy
xuất hiện tại đây rất thường xuyên. Trong những chuyến công tác như vậy, họ
ăn mặc như Việt Cộng và vừa đeo súng của Mỹ vừa đeo súng của Khối Cộng,
giống như các cán binh Việt Cộng thật. Có một lần một toán giả dạng Việt
Cộng xâm nhập vào vùng này với mục đích tìm hiểu thêm về sinh hoạt của địch.
Theo đúng chương trình, toán này tìm đến một trạm giao liên thì không ngờ có
một trung đội Việt Cộng thật cũng đang ở đó. Hai bên đối thoại một lúc rồi
toán của ta bỏ đi để đến điểm hẹn với trực thăng đến đón. Mãi đến khi nghe
thấy tiếng máy bay trực thăng, toán Việt Cộng thật mới sinh nghi và cầm súng
chạy đến để bắn nhau với những người mà trước đó chỉ vài phút chúng tưởng là
đồng chí.
Một cách khác nữa để các toán trong Đơn Vị Thám Sát Tỉnh thu thập tin tức
tình báo là giả dạng nhân viên kinh tài Việt Cộng. Thông thường, họ dùng
những cuốn biên lai thu thuế tịch thu được của Việt Cộng rồi vào rừng tìm
dân khai thác gỗ mà thu tiền, thường là 100 đồng Việt Nam mỗi người vào năm
1967. Nhờ vậy, họ dễ dàng thu thập thêm tin tức về tình hình địch cũng như
địa bàn hoạt động của chúng.
Chính những thành công vượt bực mà Biệt Chính Nhân Dân cùng với các Đơn Vị
Thám Sát Tỉnh đem lại đã khiến chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, với sự hậu thuẫn
của CIA, đánh mạnh hơn nữa vào hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đưa đến việc khai
sinh Chiến Dịch Phượng Hoàng vào năm 1967.
Sau một thời gian thử nghiệm thành công, cả Chiến Dịch Phượng Hoàng lẫn các
Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được chính thức hoá qua Nghị Định 044 –SL/NV có nội
dung như sau.
Điều Một: Nghị định này chính thức thành lập các đơn vị đặc biệt cấp tỉnh có
tên là Đơn Vị Thám Sát Tỉnh.
Điều Hai: Các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh có nhiệm vụ:
1. Thu thập những tin tình báo liên quan đến hạ tầng cơ sở của Việt
Cộng.
2. Thực hiện các cuộc hành quân diện địa và các dự án đặc biệt, nhằm
tiêu diệt hạ tầng cơ sở Việt Cộng.
3. Tham gia các cuộc hành quân hỗn hợp do các Trung Tâm Phượng Hoàng
cùng Trung Tâm Phối Hợp Tình Báo Hành Quân cấp Tỉnh, Quận tổ chức.
4. Tiếp tay với các lực lượng Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh trong
các cuộc hành quân trinh sát, các sứ mạng tình báo và xác định vị trí của
địch.
Điều Ba: Các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được đặt dưới quyền điều động trực tiếp
của Tỉnh Trưởng.
Việc quản trị hành chánh các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh sẽ thuộc thẩm quyền của
Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia.
Điều Bốn: Việc tổ chức, phân công đặc biệt và huấn lệnh điều hành của Các
Đơn Vị Thám Sát Tỉnh sẽ được quyết định liên đới bởi Tổng Trưởng Nội Vụ và
Tổng Trưởng Quốc Phòng.
Điều Năm: Tất cả các điều khoản trước đây trái ngược với Nghị Định này đương
nhiên được huỷ bỏ.
Điều Sáu: Phó Thủ Tướng Đặc Trách Bình Định và Phát Triển Nông Thôn Kiêm
Tổng Trưởng Nội Vụ, Tổng Trưởng Quốc Phòng và Đổng Lý Văn Phòng Phủ Thủ
Tướng chiếu nhiệm vụ thi hành Nghị Định này.
Sàigòn, ngày 31 tháng Ba năm 1969
Thủ Tướng Chính Phủ
Trần Văn Hương (ấn ký)
Qua nghị định này, chúng ta thấy rằng quyền điều động các Đơn Vị Thám Sát
Tỉnh đã được chuyển từ Bộ Tổng Tham Mưu sang Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia.
Điều này gián tiếp xác nhận rằng kể từ đó, các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh được xem
như một lực lượng bán quân sự.
Trong phần còn lại của bài tuần này, chúng ta thử nhìn lại những thành quả
của Chiến Dịch Phượng Hoàng nói chung và các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh nói chung.
Trong năm 1968, có 11 ngàn 288 tên Việt Cộng bị bắt, 2 ngàn 229 tên hồi
chánh và 2 ngàn 559 tên bị bắn hạ.
Trong năm 1969, chúng ta bắt được 8 ngàn 515 tên, chiêu hồi 4 ngàn 832 tên,
bắn hạ 6 ngàn 187 tên.
Trong năm 1970, chúng ta bắt được 6 ngàn 405 tên, chiêu hồi 7 ngàn 745 tên
và bắn hạ 8 ngàn 191 tên.
Từ đầu năm 1971 đến tháng Năm, chúng ta bắt được 2 ngàn 770 tên, chiêu hồi 2
ngàn 911 và bắn hạ 3 ngàn 650.
Về việc Chiến Dịch Phượng Hoàng bị đình chỉ, chúng ta cũng nên nhìn qua một
cách tổng quát.
Việc giới truyền thông tây phương xuyên tạc về chiến dịch này là một điều dễ
hiểu vì đó là truyền thống hoặc chủ trương của họ. Tuy nhiên, tại sao Quốc
Hội Hoa Kỳ đi đến quyết định đòi hỏi phải ngưng lại chiến dịch này mới là
điều chúng ta cần biết. Sau khi đã nghiên cứu một số tài liệu và công văn,
chúng tôi nhận thấy Paul Elliot nói một cách khá trung thực trong cuốn
Vietnam: Conflict and Controversy xuất bản tại Anh vào năm 1996.
Theo Elliot, Chiến Dịch Phượng Hoàng chỉ nhắm vào thành phần cán bộ Việt
Cộng chứ không nhắm vào những tên du kích cắc ké. Tuy nhiên, để tóm cổ được
những tên này chúng ta không phải chỉ trông cậy vào tin tức của các mật báo
viên mà nhiều khi còn nhờ vào lời khai của những tên cấp dưới. Vì vậy, tất
cả những phần tử Việt Cộng hay cộng tác với chúng như kinh tài thu thuế sau
khi bị bắt đều bị đưa về một trong 80 văn phòng của Chiến Dịch Phượng Hoàng.
Tại đây, những tên này sẽ bị thẩm vấn và nếu chúng quá khích, có thể bị trao
cho anh em người Nùng vốn chống cộng thẳng tay. Đã có những trường hợp Việt
Cộng bị chết trong khi nằm trong tay anh em người Nùng. Tuy nhiên, vẫn theo
Elliot, đã có những nhân chứng đã trân tráo vu cáo Việt Nam Cộng Hoà một
cách trắng trợn trước Uỷ ban Điều Tra của Thượng Viện Hoa Kỳ mà người ta vẫn
tin, hoặc mượn cớ đó để làm khó dễ Việt Nam Cộng Hoà. Elliot kể một trường
hợp điển hình là có một cựu nhân viên (?) của Chiến Dịch Phượng Hoàng khai
rằng không một người nào bị bắt vì bị tình nghi là Việt Cộng mà sống sót mà
lại không có bất cứ bằng chứng nào rằng họ là Việt Cộng. Kế tiếp, Elliot mỉa
mai rằng nếu đúng như vậy thì tại sao sau năm 1975, Ngoại Trưởng Nguyễn Cơ
Thạch của Hà Nội lại tuyên bố rằng Chiến Dịch Phượng Hoàng đã tiêu hủy biết
bao nhiêu căn cứ của Việt Cộng. Elliot lại thêm rằng Thạch không dám nhắc
đến việc các toán ám sát khủng bố của Việt Cộng đã giết hại mấy chục ngàn
người phần lớn là nhân viên xã ấp và giáo viên trong suốt hai thập niên
trước đó. Cuối cùng, Elliot kết luận một cách khá hợp lý rằng trong trường
hợp một đơn vị quốc gia bắn nhau với một toán Việt Cộng ẩn náu trong một căn
nhà thì nếu không một ai, kể cả thường dân, trong căn nhà đó còn sống sót là
một điều thường tình khó tránh khỏi. Do đó, có thể nói rằng có vào khoảng 30
ngàn người bị bắt hoặc bị bắn chết trong Chiến Dịch Phượng Hoàng mà không
phải tất cả 30 ngàn người này đều là Việt Cộng.
Ở một đoạn khác, Elliot thuật lại rằng khi Chiến Dịch Phượng Hoàng đã được
chính thức hoá, Trùm CIA tại Việt Nam lúc đó là William Colby đã chính thức
cấm chỉ việc thủ tiêu các tên Việt Cộng bị bắt, với bất cứ lý do gì và trong
bất cứ hoàn cảnh nào. Elliot nói tiếp rằng bản báo cáo nói rằng đại đa số
những tên bị chết là vì giao tranh với lực lượng hành quân là một bản báo
cáo đáng tin cậy, nhưng lại có một số người không mấy tin tưởng. Theo
Elliot, chính vì vậy mà Thượng Viện Hoa Kỳ áp lực chính phủ phải ngưng ngay
Chiến Dịch Phượng Hoàng, nếu muốn họ thông qua ngân sách.
Đến đây, chúng ta trở lại với những thành quả điển hình của các Đơn Vị Thám
Sát Tỉnh. Trong bản báo cáo mật mà chúng tôi trình ra đây, nếu dịch sang
Việt ngữ thì có nội dung như sau:
Báo cáo tin tức tình báo số 0211 lúc 8 giờ 30 tối ngày 22 tháng Chín 1969
Đề mục: Vị trí của đặc công Việt Cộng tại Thị xã Qui Nhơn
Lượng giá: F- 3
Tường trình: 15 tên đặc công Việt Cộng, mặc quần xám và áo sơ- mi trắng có
đem theo chất nổ, đang ẩn náu tại mấy căn nhà gần thiết lộ hoả xa cạnh Đường
Gia Long, phía nam Đường Đống Đa trong Thị xã Qui Nhơn. Những căn nhà này
nằm gần Khách sạn Việt Cường và một bến xe đò. Những tên đặc công này là con
trai tuổi từ 15 đến 18. Chúng có giấy tờ hợp lệ và đến Qui Nhơn vào ngày 20
tháng Chín 1969. Chúng đến từ Quận Phù Cát theo lệnh của những tên cán bộ
trong Uỷ ban Huyện Phù Cát của Việt Cộng. Chúng dự định ném thuốc nổ vào
những quân nhân trên quân xa và những đám đông quân nhân đứng dọc theo các
con đường. Cũng có thể chúng sẽ âm mưu ám sát các viên chức tỉnh.
Giữ cẩn thận báo cáo này hoặc tiêu huỷ.
Bản báo cáo này do Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định gửi đến Trung Tâm Phối Hợp
Tình Báo Hành Quân yêu cầu ra tay. Nội dung bản báo cáo cho chúng ta thấy
các Đơn Vị Thám Sát Tỉnh giữ một vai trò rất quan trọng trong việc gìn giữ
an ninh tại hậu phương và họ thu thập tin tức tình báo rất chính xác và khá
nhanh. Một trong những người đầu tiên đọc bản báo cáo trên là Chuẩn Uý Ossie
Ostara thuộc Huấn Luyện Đoàn Lục Quân Úc Đại Lợi tại Việt Nam. Ostara đã ba
lần sang phục vụ tại Việt Nam, nói tiếng Việt rất thông thạo và được các
chiến sĩ Việt Nam hết mực quí mến.
Ostara sang phục vụ tại Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1964 và làm cố vấn tại
Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Đống Đa. Sang năm sau, ông về Vũng Tàu phụ
trách việc huấn luyện về công tác dân vụ cho cán bộ Bình Định và Phát Triển
Nông Thôn đầu tiên. Đến năm 1967, ông ra cố vấn cho Tỉnh Thừa Thiên và sau
biến cố Tết Mậu Thân lại vào cố vấn cho Tỉnh Lâm Đồng rồi năm 1969 lại ra cố
vấn cho Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định. Lúc đó, đơn vị này có ba toán và mỗi
toán 18 người. Chính trong thời gian phục vụ tại đây mà Chuẩn Uý Ostara hiểu
rõ hơn hết về đơn vị này.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho phóng viên của Bảo tàng viện Chiến Tranh Úc
vào tháng Hai 1976, Ostara tiết lộ rằng việc Việt Cộng không thể hoạt động
mạnh như trước năm 1969 tại Bình Đình một phần nhờ vào các cuộc hành quân
của các đơn vị Đại Hàn và một phần nhờ vào Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình Định.
Đơn vị này có rất nhiều thành viên vốn là hồi chánh viên mà trong đó có tới
bảy người là cán binh Cộng Sản Bắc Việt. Lúc đầu, Ostara cũng lo ngại cho sự
hoà thuận giữa các chiến binh Việt Nam Cộng Hoà và những người một thời là
kẻ thủ. Tuy nhiên, trong suốt hai năm làm cố vấn cho đơn vị, Ostara chỉ có
ba điều để nói về những hồi chánh viên này. Thứ nhất, họ trở về với chính
nghĩa quốc gia và trung thành tuyệt đối. Thứ hai, họ là những quân nhân có
sức chịu đựng khá, đáng tin cậy và biết tuân thượng lệnh. Thứ ba, sự hiểu
biết của họ về Việt Cộng đã giúp cho các đơn vị quốc gia rất nhiều trong
việc hoàn thành sứ mạng, nhất là phá vỡ hạ tầng cơ sở của Việt Cộng. Nhân
tiện, Ostara cũng kể lại một cuộc hành quân của Đơn Vị Thám Sát Tỉnh Bình
Định.
Đêm 7 rạng ngày 8 tháng Chín 1969, có hai tên du kích lẻn đi thu lương thực
từ dân chúng trong một ấp nhỏ thuộc Quận Phù Cát. Chỉ đến sáng sớm thì các
chiến sĩ tại tỉnh lỵ nhận được tin này và họ lập tức kéo đến đó bằng quân xa
rồi đổ xuống ngay bìa ấp cạnh đường. Khi những chiến sĩ đi đầu tiến vào gần
đến khu dân cư, một thanh niên mặc áo trắng quần đùi đen từ một bụi cây đứng
dậy và ném ra một trái lựu đạn. Thấy vậy, các chiến sĩ vội nằm xuống và lợi
dụng tình thế, hai tên du kích chạy như bay từ bụi cây vào một trong những
căn nhà trong ấp. Ngay sau khi trái lựu đạn nổ, một số chiến sĩ của đơn vị
hành quân bắn che có các chiến sĩ đi đầu xông vào bao vây các căn nhà. Từ
một trong những căn nhà này, hai trái lựu đạn nữa được tung ra nhưng không
gây một thiệt hại nào đồng thời nơi ẩn núp của hai tên du kích đã bị lộ.
Vòng vây xiết chặt nhanh chóng và cả hai tên bị bắt sống.
Không tự mãn với kết quả này, các chiến sĩ tiếp tục lục soát rất kỹ cả khu
vực và cuối cùng thấy có hai sợi dây điện nối với một cục pile. Lần theo sợi
dây điện dài 150 thước, các chiến sĩ thấy có một đầu đạn đại bác 105 ly chôn
dưới mặt đường. Trong cuộc thẩm vấn tại chỗ, hai tên du kích khai rằng chúng
chờ cho đoàn quân xa của Đại Hàn đi qua thì cho nổ đầu đạn này. Chúng cũng
khai rằng nơi ẩn náu của chúng nằm sâu trong rừng cách đó khoảng 1 ngàn 500
thước. Sau đó, đơn vị hành quân để vài chiến sĩ ở lại ấp để canh chừng tên
Việt Cộng thứ nhất và tất cả các chiến sĩ còn lại cùng với tên Việt Cộng thứ
hai dẫn đường tiến vào rừng. Khi vào đến giữa một khu rừng tre, Việt Cộng
bắn ra trước nhưng không trúng ai và sau đó chúng lại ném ra hai trái lựu
đạn và cũng không gây thiệt hại. Các chiến sĩ ta kêu gọi chúng đầu hàng
nhưng chỉ có mấy loạt đạn đáp lời. Giữa lúc đó, một chiến sĩ bò vòng sang
bên hông và cuối cùng tìm thấy một lỗ thông hơi chạy xuống hầm trú ẩn của
Việt Cộng. Hai trái lựu đạn được thả xuống và cuộc lục soát sau đó cho thấy
không một tên nào dưới hầm sống sót.
Theo lời Chuẩn Uý Ostara, trung bình mỗi tháng các chiến sĩ thuộc Đơn Vị
Thám Sát Tỉnh Bình Định bắt được ba chục tên Việt Cộng và bắn hạ gần mười
tên. Rất hiếm khi có các bộ cao cấp của Việt Cộng nằm trong số này nhưng lại
có khá nhiều cán bộ cao cấp ra hồi chánh.
Đương nhiên là Việt Cộng không chịu ngồi yên để bị các chiến sĩ của Đơn Vị
Thám Sát Tỉnh tiêu diệt dần dần. Tuy nhiên, chúng chỉ có một cách duy nhất
là nhận diện và ám sát các chiến sĩ thuộc các đơn vị này. Điều cay đắng cho
chúng là trong khi tìm cách nhận diện và ám sát chiến sĩ quốc gia, chính
những tên đặc công khủng bố lại bị bắn hạ hoặc bắt sống trước khi kịp hành
động. Tuy vậy, theo Chuẩn Uý Ostara, ông và tất cả các chiến sĩ của đơn vị
rất ít khi ra phố chơi nhất là không bao giờ đến những quán nhậu hay quán cà-
phê. Họ chỉ chơi với nhau và luôn luôn mặc thường phục. Phải cẩn thận hơn cả
là những chiến sĩ vốn là hồi chánh viên. Lý do là Việt Cộng biết mặt họ và
rất căm hận họ. Những người từ bỏ hàng ngũ Việt Cộng trở về với chính nghĩa
quốc gia và đem những gì mình biết về Việt Cộng để giúp chúng ta sớm chấm
dứt chiến tranh, đôi khi đã phải trả một giá rất đắt.
Chú thích
(1) Theo báo cáo chính thức (After Action Report) ngày 12 tháng Mười 1968
của Quân Đội Hoa Kỳ. Phó bản hiện được lưu trữ trong Văn khố Quân Đội Hoàng
Gia Úc Đại Lợi.
(2) Tại nhiều tỉnh, đơn vị này dùng danh xưng Lực Lượng Trinh Sát Tỉnh,
nhưng danh xưng chính thức trên văn thư vẫn là Lực Lượng Thám Sát Tỉnh.